Mình muốn tinh tấn mà thiếu đề tài suy tư, thiếu lý thuyết, thiếu cẩm nang, mình ráng gồng thì sớm muộn gì cũng sụm. Phật biết điều này nên Phật dạy đây là 5 điều suy tư mà một người muốn tinh tấn siêng năng thì phải thường xuyên xem nó như lá bùa hộ mệnh để trong túi, khi nào nó sắp oải, sắp chán, sắp buông, sắp sụm thì lấy 5 điều này ra đốt thành tro nuốt cái ực, còn không thì trong uống ngoài thoa năm điều này.
1 - Niềm tin đúng đắn nơi Đức Phật
Phải hiểu rõ các đức lành tiêu biểu của Phật như:
Tự ngài giác ngộ không thầy; bậc thầy của tất cả chúng sinh; là người có thể tiếp dẫn kẻ hữu duyên, ngài có vô lượng phương tiện để gợi ý cho người hữu duyên được đắc pháp. Tiếp dẫn ở đây không phải hiểu theo nghĩa là tiếp dẫn đạo sư, là phóng quang, rồi có Tràng Phan - Bảo Cái cùng với thánh chúng rước vong mình về cõi Tây Phương, mà tiếp dẫn ở đây có nghĩa là dắt dìu, (chứ đừng đi đồn nói chúng tôi nói Phật Thích Ca Mâu Ni là tiếp dẫn đạo sư, điều này là không có). Cứ nghĩ chừng đó là thấy sung sướng. Nếu mình hiểu Phật pháp tới mức suy nghĩ về ngài như trên.
2 - Phật là người ít bệnh
Ngoại trừ bốn lần trọng bệnh được kể trong kinh, ngài rất hiếm khi bị Se Mình Ương Yếu, có nghĩa là nắng không ưa, mưa không chịu, ghét gió kỵ mù sương, nhảy mũi, hắc xì, trùm chăn, quấn mền, lấy đồ che, sức dầu, mang vớ, áo len trong ngoài..v.v , Phật không bị những thứ đó. Trung bình mỗi ngày, ngài ăn đồ bá gia, họ cho đồ nóng, lạnh, chiên, xào, cà ri..v.v, ngài dùng thanh thản không sao hết. Phật thần thông đầy người, trong 45 năm hoằng đạo Phật đi bộ là chủ yếu, một người có thể lực trung bình thì đã không kham nỗi, nhưng Phật thì không. Bốn lần trọng bệnh của Phật nổi bật là:
1/ Trong kinh nói ngài bị chứng đau lưng suốt đời vì nghiệp quá khứ. Trước khi viên tịch ba tháng có một buổi chiều đó sau khi xả định, ngài thấy lưng đau, ngài nghĩ nghiệp đến đây đã mãn, thôi thì từ đây cho đến ngày ta viên tịch bệnh này đừng bao giờ tái phát nữa. Thế Tôn Chú nguyện như vậy và lập tức kể từ ấy ngài không bị đau lưng nữa.
2/ Có lần đó Thế Tôn gặp khó khăn trong đường bài tiết thì ngài có nói với ông Jīvaka danh y, ông này quí Phật lắm, ông nghĩ Thế Tôn một ngày chỉ ăn có một bữa, bây giờ Thế Tôn phải đưa vật gì vào miệng nuốt, đối với ông chuyện đó ông không muốn, ông thương quí Phật không có bến bờ nào mà kể xiết. Quí vị chỉ nghe mấy vị thầy tả về Phật, mà không nghiên cứu, trên đời này có người quí Phật đến như vậy.
Chẳng hạn như trong kinh nói nhiều lần và rất nhiều lần, Thế Tôn nhìn hội chúng Tỷ Kheo ngồi trước mặt ngài đang im lặng ngài suy nghĩ như sau: “ Nếu ta không phải là người mở lời, thì chúng Tỷ Kheo này dầu có im lặng suốt một đại kiếp, bốn lần thành trụ hoại không của vũ trụ thì họ cũng sẽ im lặng vì lòng tôn kính Như Lai.”
Ông Jīvaka này ông thương kính Phật quá cỡ, ông không nghĩ là ông đưa cho ngài một chén thuốc đắng, ông không can tâm, không đành lòng. Cuối cùng ông nghĩ ra một cách, ông làm một loại thuốc tán thiệt mịn, chính tay ông lựa, kiểm chứng một hoa sen ok nhất từ một hồ hoa sen sạch, ông rắc loại thuốc đó lên dâng cho Phật. Ông nói Thế Tôn chỉ việc cầm hoa sen này ngửi, thì tự nhiên Thế Tôn sẽ được thông đường bài tiết.
Từ chuyện đó mà mình thấy đi đâu cũng nảy ra chuyện Phật cầm bông sen, và diễn dịch nào là Phật cầm bông sen bên Linh Thứu, nhìn đại chúng mĩm cười không ai hiểu, ý là không ai hiểu, rồi hội ý hỏi Thế Tôn, riêng Tôn Giả Ca Diếp mĩm cười và Phật bèn trao truyền chánh Pháp nhãn tạng..v.v. Bên Nam Tông chuyện Phật cầm hoa sen ngửi, chỉ để chữa bệnh bài tiết (bệnh bón).
Còn việc Phật trao y cho ngài Ca Diếp là như vầy: Phật biết đây là người sẽ trì hạnh đầu đà suốt đời và sẽ là tấm gương sáng, gương lành cho tứ chúng mai hậu, cho nên ngài khen y ngài Ca Diếp đang mặc là y tốt, rồi ngài Ca Diếp dâng y đó cho Đức Phật, và Đức Phật nói thế này: “y ta là y thô, nhặt từ ngoài chỗ liệng xác, Ca Diếp không ngại thì lấy mặc" . Quí vị tưởng tượng một vị Chánh Đẳng Chánh Giác đích thân tự tay nhặt y đó về vò giặt, đệ nhất thị giả Anānda đem đi cắt may nhuộm, thì quí vị tưởng tượng lá y đó nó lớn chuyện cỡ nào. Ngài Ca Diếp không còn lý do nào mà không trân quí vô bờ đối với lá y đó. Ngài nhận y đó và phát nguyện: “từ nay cho đến con không còn thở nữa, con chỉ xài loại y này thôi, lá y Thế Tôn trao cho con có mục nát đi nữa, thì con cũng tìm một lá y khác từ ở tha ma mộ địa, vải lượm con mặc, chứ con không mặc của tín thí cúng dường may sẵn". Thì từ chuyện đó mà qua cái chuyện Đức Phật trao y bát tùm lum. (Mình không bàn nhiều về chuyện đó ).
3/ Có một buổi chiều trước khi viên tịch ngài xả định, buổi trưa nào ngài cũng dưỡng sức bằng nhập định, có hai loại đinh: 1/ quả định ngài an trú vào tâm quả La Hán suốt một giờ, hai giờ, ba giờ, tuỳ theo ngài muốn. 2/ là ngài trú vào không tướng, an trú trong đề mục niệm xứ, thở ra biết thở ra, thở vào biết thở vào, ở đây chỉ có bốn đại, ở đây chỉ có ý thức, ở đây không hề có một người một chúng sanh thọ giả nào hết. Đó gọi là không tánh giải thoát, ngài thường an trú vào hai cái này.
Sau khi ngài xả định xong, lập tức ngài nhận ra có một cơn bạo bệnh đang diễn ra trong cơ thể của ngài, và ngài biết chắc chắn mười mươi với chứng bệnh này ở người bình thường là chết ngay lập tức, ngài biết nếu bây giờ ngài không dùng thiền định kềm lại thì ngài phải viên tịch. Cho nên Thế Tôn suy nghĩ rất nhanh ta không thể đi ngay bây giờ và ngày dùng thiền định kềm lại, tiếp tục trụ thế thêm vài tháng nữa.
4/ Ngài bị kiết lị nặng nề trước khi xả bỏ Thọ Hành là ayusankhara avassaji, có nghĩa là xả bỏ mạng sống, không còn có ý tiếp tục sinh tồn nữa, tại vì với lòng tôn kính Thế Tôn, với chư Phật nói chung, chuyện qua đời, từ trần, khuất núi, quá vãng được dùng từ rất sang đó là ayusankhara avassaji, Xả bỏ mạng sống.
Giống như ngoài đời vua mất người ta gọi là Băng Hà. Mỗi lần ông vua kêu mấy cung tần vô hầu thì gọi là Triệu Hạnh, tắt đèn sụp mùng thì gọi là Lâm Hạnh, ăn gọi là Ngự Thiện. Gọi vậy cho sang.
Trong ngôn ngữ Thái Lan có ba dòng ngôn ngữ: 1/ là ngôn ngữ bình dân, bất chấp văn tự, xài tiếng lóng tha hồ, dân ngành cá, dân tiểu thương, dân làm ruộng đều có tiếng lóng riêng. 2/ là ngôn ngữ sử dụng trong văn chương sách vở, kinh điển đặc biệt là giới tu sĩ và dân trí thức, dân bình dân nghe cũng hiểu mà chỉ hiểu lốm đốm. 3/ là cách nói tiếng Thái dành riêng cho giới hoàng gia, tiếng Thái cũng cầu kỳ như vậy. Tiếng Mỹ có hai là: Formal and informal, formal English, tức là thứ tiếng chuẩn Academic English dùng trong trường lớp dành cho mấy người có học, và thứ hai là formal English, chữ Slang dùng nhiều tiếng bồi tiếng lóng. Chỉ vậy thôi, Formal and informal.
Thế Tôn ngoài những lần trọng bệnh này, chính ngài cũng nhìn nhận là ngài ít bệnh.
3 - Phật là người trung thực nhất đời
Phật là người trung thực nhất đời, nói sao làm vậy, trước mặt muôn người, hay về rừng núi một mình cũng chỉ có một cách sinh hoạt duy nhất.
4 - Sự tinh tấn của Đức Phật
Mỗi lần mình nhớ đến Thế Tôn mình cũng nghĩ ngài là người ít bệnh, ngài là người khỏe mạnh mà còn tinh tấn, trong khi mình èo uột như thế này mà không chịu tinh tấn để tu tập thì tệ quá. Thế Tôn trừ ra những ngày mưa lớn, nếu trời không mưa lớn, chỉ mưa lâm râm, Thế Tôn vẫn phải duy trì thông lệ là đi kinh hành ngoài trời mỗi đêm tiếng Pāḷi gọi là abbhokasa, tức là ngoài trời trống.
Phật là người suốt đời tinh tấn dù không còn gì để thành tựu nữa, vẫn luôn sống năng động như một hành giả thượng thừa. Loại hành giả sơn lam chướng khí ma thiên nước độc, đói không có ăn, lạnh không có mặc, ngủ không chỗ nằm, mưa nắng không có mái che, thì đó gọi là hành giả thượng thừa, thì Thế Tôn y chang như vậy. Thế Tôn là một vị tinh tấn không ngừng, quí vị tưởng tượng sáng nào cũng đi khất thực, buổi chiều thuyết pháp cho tứ chúng, buổi tối nói chuyện riêng nhắc nhở chư tăng, khuya gặp gỡ trả lời chư thiên phạm thiên, trời rạng sáng ngài dùng Phật trí soi rọi vô lượng vũ trụ xem hôm nay ai là người đủ duyên lành để ngài gặp mặt.
Đối tượng để ngài gặp mặt gồm có hai: 1/ người chứng đạo kiếp này, là ngài biết hôm nay ngài sẽ gặp người đó sẽ đắc cái này, cái kia, hoặc vài tháng, vài năm nữa họ cũng sẽ đắc, người sẽ nhờ hôm nay mà có thêm duyên phước. Đó là đắc đạo kiếp này. 2/ hạng thứ hai gặp, ngài sẽ biết họ là vị Phật tương lai, Độc Giác tương lai, Thinh Văn tương lai, hôm nay nếu họ gặp ngài là ngài đã đẩy cho họ một bàn tay để họ đi về phía trước nhanh hơn.
Với lòng đại bi của chư Phật, thương ai như mẹ thương với đứa con một duy nhất. ekaputta=con một.
5 - Phật là người có trí tuệ rốt ráo về tánh sanh diệt của vạn hữu
Cái gì cần làm thì làm nhưng luôn hiểu, cái gì cũng không còn hoài. Nếu trong room này làm được điều thứ 5 cũng đủ là một hành giả thượng thừa, cũng đủ là một Phật tử thượng thừa, cũng đủ hoàn tất đạo nghiệp giải thoát.
Tức luôn luôn ý thức rất rõ tính tùy duyên sanh diệt của mọi thứ ở đời, tuy nhiên, biết mọi thứ không bền nhưng chuyện cần làm thì phải làm, chứ không phải thấy cái gì mong manh rồi không làm là sai, cái đó không phải là thái độ của người hiểu chuyện. Người hiểu chuyện thật sự là một bậc thánh thì họ đặc biệt chỗ này: thấy nó là phù du, nhưng chuyện cần làm vẫn làm, thấy ai cần độ thì độ, ai cần gặp thì gặp, chuyện nên nói thì nói, cần bận tâm thì cũng bận tâm rồi xong.
Như Ngài Ca Diếp, lúc Phật viên tịch, ngài Ca Diếp cũng già, trong kinh nói rất rõ, lúc Phật gần tịch, ngài Ca Diếp có về lạy Phật. Đức Phật có dạy: “năm nay Ca Diếp đã lớn tuổi về sống với Như Lai, đừng khổ cực trên núi rừng nữa".
Ngài Ca Diếp quỳ lạy Phật: “Bạch Thế Tôn con còn đi bộ được, ống chân con còn mạnh còn đi khất thực được, con muốn dùng sức tàn của thân già này làm gương lành cho kẻ hậu học đời sau, và từng bước chân khất thực của con, còn giúp được cho bao nhiêu người khác nữa, tạm thời con chưa muốn về bên cạnh Thế Tôn. Chuyện Thế Tôn kêu con, thì Thế Tôn biết con sẽ làm gì".
Trong kinh Tương Ưng khi giảng về ngài Ca Diếp đặc biệt lắm, bậc thánh là như vậy, hiểu đời là phù du sương khói, chuyện cần làm thì phải làm, như một người mẹ già sống không còn bao lâu nữa, chuyện cần làm cho con thì mẹ vẫn làm.
Còn mình lại khác, khi mình không có tình với người, với vật, với cảnh, khi mình sắp đi thì mình xả rác một đống rồi bỏ đi. Đó là kiểu hạ nhân của mình , còn bậc thượng nhân thì sống như mẹ với con, người mẹ già biết mình sắp mất còn quét sân thì cũng quét cho con, nhuốm bếp lửa cho con cũng làm, biết lát nữa đây mình cũng đi rồi, nhưng hễ làm được gì cho con thì vẫn làm, lòng Phật đối với đời là như vậy đó quí vị.
Suy tư năm điều này khiến cho hành giả thêm bội phần tinh tấn.
Sư Giác Nguyên
Chép lại bài giảng của Sư 18-9-2018
Nguồn: Diệu Trí